Khơi dậy đức tính vị tha ở trẻ không chỉ tốt cho sự phát triển tính cách của trẻ mà còn có ý nghĩa nhân văn đối với xã hội. Việc cha mẹ cho con tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động từ thiện là việc làm quan trọng khi dạy con học làm người. Cho con làm từ thiện Trong những năm gần đây ngày càng xảy ra nhiều thảm họa, thiên tai gây thiệt hại rất nhiều về người và của, và ngày càng có nhiều những hoàn cảnh đáng thương được đề cập trên phương tiện thông tin đại chúng. Chứng kiến những điều đó, nhiều bậc cha mẹ dạy con về lòng từ thiện và sự quan trọng khi đến với nhau trong cơn hoạn nạn. Họ đã hào phóng trợ giúp, thường xuyên đưa con mình tham gia vào hoạt động từ thiện, chuẩn bị tiền, vật dụng cứu trợ để gửi đi. Họ cũng khuyến khích con mình mở rộng tình yêu thương và chia sẻ những khó khăn, mất mát với những người không quen biết. Anh Lê Văn Thành có con học Trường THPT Chu Văn An (Hà Nội) chia sẻ: “Tôi muốn cháu quan tâm đến mọi người, đến xã hội, hiểu giá trị của tri thức và biết quý trọng cơ hội của mình. Cũng giống như chúng ta cho trẻ cơ hội sử dụng đôi chân của mình khi trẻ đang tập đi, chúng ta cần phải cung cấp cho trẻ cơ hội để làm từ thiện, thể hiện sự quan tâm, thương yêu đến những người khác kém may mắn hơn mình”. Diễn viên Mai Thu Huyền trong chương trình “Hành trình nhân ái” cho biết, chị đã cùng con gái tham gia chuyến đi về miền quê nghèo, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Theo chị, làm từ thiện là một phương pháp giáo dục con cái rất hữu hiệu. Thực tế, trong cuộc sống, nhiều phụ huynh chỉ khuyên con học suốt đêm ngày để thi đậu vào trường chuyên lớp chọn, nhất là ở các đô thị, không muốn cho con em sinh hoạt xã hội, sợ mất đi thời giờ ảnh hưởng đến học tập, nhiều gia đình khá giả còn cho người làm hết mọi việc phục vụ sinh hoạt cá nhân cho con em để con em họ chỉ còn một hoạt động là học. Tuy nhiên, dạy con cách biết chia sẻ, cảm thông và nghĩ đến người khác ngay từ tuổi ấu thơ luôn là điều nên làm. Bài học đầu đời quan trọng với trẻ Chia sẻ về điều này, ThS tâm lý Phan Lan Phương, giảng viên Trường CĐSP Cần Thơ cho rằng, giúp con biết cảm thông và chia sẻ là một trong những bài học đầu đời quan trọng mà các bậc cha mẹ cần dạy trẻ. Khi bố mẹ tạo cho con cơ hội tiếp xúc với nhiều người và các hoàn cảnh khác nhau, con sẽ được tận mắt chứng kiến những cảnh đời bất hạnh, côi cút của các bạn cùng trang lứa hay cảnh neo đơn của các cụ già, cảnh ốm đau bệnh tật hết tiền cứu chữa của một gia đình nghèo... Cha mẹ hãy khơi dậy trong con sự cảm thông, thương xót với những người kém may mắn và có cảnh đời bất hạnh bằng các cử chỉ quan tâm, hỏi han, giúp đỡ họ bằng hành động thiết thực như quyên góp tiền, quần áo, sách vở... cần hướng dẫn và đồng hành cùng con để con có thể tham gia hoạt động từ thiện một cách có ý nghĩa, bền lâu. Theo ThS tâm lý Phan Lan Phương, lợi ích của việc tích cực bồi dưỡng lòng từ thiện cho trẻ em là rất lớn. Bên cạnh việc giúp trẻ mở rộng tầm nhìn, từ thiện còn mang lại cho trẻ em một sự thúc đẩy mạnh mẽ để nhân rộng lòng nhân ái, để trẻ nhận ra rằng có thể tạo sự khác biệt cho cuộc sống của một ai đó. Vì vậy, các bậc cha mẹ đừng chờ tới khi con em mình lớn lên, ngỡ ngàng trước thực tế và mất phương hướng, đừng chỉ tập trung cho con ăn học mà hãy cho phép con tham gia, thậm chí khởi xướng những hoạt động thực tế ngoài việc học ở trường ngay từ khi con còn nhỏ. >> Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân -------------------------------------------- Theo Phương Thảo/ giaoducthoidai.vn
0 Comments
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Danh mục trên gồm Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân cấp I, cấp II và cấp III. Trong đó: Cấp I: Trình độ giáo dục, đào tạo; Cấp II: Lĩnh vực giáo dục, đào tạo; Cấp III: Nhóm chương trình, nhóm ngành, nhóm nghề giáo dục, đào tạo. Cụ thể, Danh mục cấp I gồm các trình độ giáo dục, đào tạo sau: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ. Danh mục cấp II, III gồm các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và các nhóm chương trình, nhóm ngành, nhóm nghề giáo dục, đào tạo sau: Chương trình cơ bản (gồm chương trình giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông); chương trình xoá mù chữ; chương trình giáo dục chuyên biệt; khoa học giáo dục và đào tạo giáo viên; nghệ thuật (gồm mỹ thuật, nghệ thuật trình diễn, nghệ thuật nghe nhìn, mỹ thuật ứng dụng); nhân văn (gồm ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam, nước ngoài); khoa học xã hội và hành vi (gồm kinh tế học, khoa học chính trị, xã hội học và nhân học, tâm lý học, địa lý học, khu vực học)... Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội theo dõi, cập nhật và hướng dẫn Danh mục giáo dục, đào tạo cấp I, cấp II và cấp III. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội theo chức năng, nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành, cập nhật và hướng dẫn Danh mục giáo dục, đào tạo cấp IV phù hợp với yêu cầu quản lý giáo dục, đào tạo. >> Người "thường thường" mới thích tụ tập bạn bè, còn người thông minh chỉ muốn ở một mình --------------------- Phương Nhi Theo những nghiên cứu từ tạp chí British Journal of Psychology và Washington Post, nếu bạn đang cảm thấy chán ngán vì những buổi tụ tập bạn bè thì có thể không phải vì bạn lập dị đâu. Có thể bởi vì bạn là người thông minh hơn mặt bằng chung xã hội đó. Bạn có hay cảm thấy thoải mái hơn khi ít gặp gỡ mọi người và dành thời gian để làm những việc có ý nghĩa của riêng mình? Theo một nghiên cứu do tạp chí British Journal of Psychology thực hiện, nhận định trên có thể là chắc chắn trong trường hợp bạn thuộc về nhóm những người thông minh hơn so với mặt bằng chung xã hội. Đúng vậy, nghiên cứu đã chỉ ra rằng với những người ở tầm "thường thường", đi tụ tập là thú vui của họ; còn với những người thông minh, ở một mình và làm những việc có ý nghĩa mới là sự lựa chọn hàng đầu. Cuộc nghiên cứu đã khảo sát các thanh niên trong độ tuổi từ 18 đến 28 tại Mỹ và đã tập trung xem xét tác động của 2 yếu tố xã hội ảnh hưởng đến hạnh phúc của con người lên các thanh niên này là: mật độ dân số và mức độ giao tiếp với người khác. Qua nghiên cứu, họ phát hiện rằng những kết quả có vẻ trái ngược nhau: Nơi có mật độ dân số càng đông thì người ta càng cảm thấy ít hài lòng với cuộc sống của họ và người càng thường xuyên giao tiếp với những người bạn thân thì lại càng cảm thấy hạnh phúc hơn. Với từng người khác nhau thì kết quả lại thiên theo một hướng khác nhau. Tuy nhiên, khi yếu tố "thông minh" được đưa vào để xem xét, mọi kết quả lại khá đồng nhất và rõ ràng. Với hầu hết những người thông minh, yếu tố mật độ dân số tác động vào nhóm người có trí thông minh cao hơn gấp đôi so với yếu tố còn lại. Điều đó có nghĩa là với những người này, họ nhìn chung giảm hài lòng với cuộc sống khi giành nhiều thời gian giao tiếp với xã hội. Như vậy, chúng ta có thể coi bằng chứng khoa học này như là lý giải cho một hiện tượng vẫn thường gặp trong cuộc sống: người giỏi thì thường có nhiều suy nghĩ và hành động khác biệt, cách xa với những người khác, hay như một hình ảnh kinh điển: thiên tài thì thường rất lập dị. Vậy còn lý giải khoa học thì sao ? Cuộc nghiên cứu của tạp chí Washington Post cũng đã chỉ ra một vài lý do. Từ xa xưa thời tổ tiên chúng ta, việc giữ mối quan hệ chặt chẽ với nhau là điều sống còn bởi lẽ nó giúp cộng đồng loài người giảm trừ bớt những tác động của ngoại cảnh. Ngày nay, cuộc sống đã thay đổi rất nhiều. Chúng ta sống nhiều ở các thành phố lớn và giao tiếp thường xuyên thông qua công nghệ. Từ đó, những giao tiếp vật lý không còn được duy trì nữa. Điều đáng nói, với hầu hết cơ thể và não bộ của một người "trung bình", do còn ảnh hưởng từ tổ tiên, nên không có đủ thời gian để bắt nhịp với thay đổi lớn trong lối sống như thế này. Tuy nhiên, với những người thông minh hơn, theo khoa học, thì không chịu ảnh hưởng sâu từ tổ tiên bằng người bình thường, từ đó tỏ ra thích ứng hiệu quả với cuộc sống hiện đại hơn. Những người này, một cách tự nhiên, sẽ hướng năng lượng não bộ của họ đến mục tiêu dài hạn và làm việc cho những điều lớn hơn; và đó có nghĩa là có ít thời gian dành cho giao tiếp xã hội. Còn người bình thường, thì lại có thể dành nhiều thời gian của họ cho giao tiếp xã hội bởi vì họ đơn giản là không quan tâm đến việc theo đuổi những mục tiêu lớn như những người thông minh có xu hướng theo đuổi - như là cố gắng để trở thành một tiến sĩ, viết được một cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất, khởi sự một doanh nghiệp hay những điều tương tự như vậy. Cần nhớ rằng các kết quả nghiên cứu này đã cho chúng ta một cách nhìn mới về những người thông minh, tuy nhiên điều này không có nghĩa là những người tự nhận mình là người thông minh trong xã hội cần cố gắng tìm nơi biệt lập để làm việc. Mỗi người vẫn cần sử dụng một lượng thời gian để duy trì các mối quan hệ để hỗ trợ cho cuộc sống sinh hoạt bình thường, dành thời gian theo cách phù hợp nhất với mỗi người, không kể bạn là người hướng nội hay hướng ngoại, thông minh hay bình thường. >> Học mà không biết làm được việc gì! ---------------------------------------------------------- Theo Chiến Thắng (CafeBiz/Trí thức Trẻ) Theo hiệu trưởng các trường ĐH, đảm bảo tỷ lệ có việc làm cao cho sinh viên sau khi tốt nghiệp là một chỉ số quan trọng để đánh giá đẳng cấp một cơ sở đào tạo ĐH. Để sinh viên được “nhúng” trong thực tế GS-TS Trần Trung, Hiệu trưởng Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, băn khoăn về việc khi đưa ra một chương trình đào tạo, các trường ĐH thường không làm rõ theo từng năm học sinh viên (SV) có thể làm được những công việc gì cho các doanh nghiệp. GS Trung lấy ví dụ về một bộ giáo trình môn toán của Mỹ. Trong đó thể hiện rõ SV học đến đâu thì có thể tính toán để thiết kế một đường băng cho máy bay cất cánh ở Thái Lan hay thiết kế được công suất một nhà máy thủy điện… Trong khi đó giáo trình của chúng ta thậm chí SV học hết cả chương trình cũng không biết mình có thể làm được việc gì! “Như vậy cái mà chúng ta có thể làm trong khi chờ cơ chế thay đổi là có thể thành lập nhóm để bàn việc xây dựng chương trình chung cho một số trường kỹ thuật”, GS Trung chia sẻ. Một đề xuất khác của GS Trung là khi giảng dạy, nếu các giảng viên tự hình dung mình là giám đốc doanh nghiệp, hiểu rõ yêu cầu của mình khi tuyển dụng lao động thì chắc chắn giúp cho SV có cơ hội tiếp cận công việc tốt hơn. Khi giảng bài, thay vì theo cách truyền thống là giảng tuần tự từ chương 1 đến chương 10 thì các thầy cô dựa vào khối kiến thức đó hình thành các chủ đề liên quan đến nghề nghiệp tương lai của SV. Theo GS Đinh Văn Nhã, Phó hiệu trưởng Trường ĐH Công nghệ Đông Á, tìm các giải pháp để cải thiện trình độ khoa học công nghệ của VN mới là cách giải quyết tận gốc vấn đề đầu ra cho giáo dục - đào tạo. “Hiện tại VN xếp thứ 56 về năng lực cạnh tranh và sự sẵn sàng về công nghệ của VN đứng thứ 92/140 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát. Nền công nghiệp và sự thích nghi của ta như thế thì làm sao có được đầu ra, để cho sản phẩm của ngành đào tạo có việc làm hay không?”, GS Nhã nêu vấn đề. Ông Nhã cũng cho rằng cần thiết kế chương trình để tạo điều kiện cho SV được “nhúng” trong thực tế, được tiếp cận với những trang thiết bị hiện đại nhất mà các doanh nghiệp đang sử dụng phục vụ sản xuất, từ đó mới tạo cho SV những kỹ năng ứng phó với công việc dựa vào đòi hỏi thực tế. Kể cả khi thất nghiệp thì với những kiến thức, kỹ năng được trang bị, SV có thể tự tạo việc làm cho mình, thậm chí thành lập doanh nghiệp để tạo việc làm mới cho những người khác. “Các trường ĐH cần phải đi theo xu hướng là đào tạo ông chủ chứ không phải chỉ làm thuê thì đất nước mới giàu, Tổ quốc mới hiển vinh”, GS Nhã nói. Nghe doanh nghiệp và hợp tác với địa phương TS Vũ Văn San, Giám đốc Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông, cho rằng các trường ĐH cần phải biết lắng nghe ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp, coi ý kiến của họ là kênh tham chiếu quan trọng để điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo. Theo PGS-TS Hà Thanh Toàn, Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ, kinh nghiệm của trường này trong việc nâng cao tỷ lệ SV có việc làm sau khi tốt nghiệp là hợp tác chặt chẽ với địa phương. Nhà trường đi tới 13 tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long để tìm hiểu nhu cầu nhân lực của các địa phương để từ đó lên kế hoạch đào tạo bao nhiêu chỉ tiêu cho những ngành nào. Trường có hơn 400 tiến sĩ mà hoạt động nghiên cứu của họ gắn chặt với các vấn đề địa phương, điều này cũng giúp cho SV của các giảng viên này dễ dàng tìm việc làm tại địa phương. Nhờ gắn kết chặt chẽ với các địa phương mà trường được các doanh nghiệp tìm đến đặt hàng. “Các nhà đầu tư mạnh tại đồng bằng sông Cửu Long là Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các doanh nghiệp của họ đều đã tìm đến tận trường, lựa chọn để đầu tư cho những SV phù hợp với yêu cầu của mình, vì thế mà khi ra trường là SV có việc làm luôn”, ông Toàn cho biết. Nâng cao chất lượng PGS-TS Trần Văn Điền, Hiệu trưởng Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên, nhận xét chất lượng đào tạo vẫn là yếu tố quyết định số một tác động tới tỷ lệ có việc làm của SV sau khi ra trường. Với 95 - 98% SV có việc làm thì việc triển khai đề án chương trình tiên tiến (giai đoạn 2006 - 2015) của Bộ GD-ĐT là bài học cần phát huy. “Tôi rất mừng khi Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nói sẽ có một đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao để nhân rộng thành công của chương trình tiên tiến. Hiện nay chúng ta có 35 chương trình mà đã đào tạo ra được 11.000 SV thì với 300 chương trình cứ thế nhân lên chúng ta sẽ được một số lượng đáng kể đáp ứng được nguồn nhân lực”, ông Điền tính toán. PGS-TS Nguyễn Hội Nghĩa, Phó giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, cho rằng xét từ góc độ từng đơn vị đào tạo, việc cho ra những sản phẩm không đạt chuẩn đầu ra, từ đó dẫn tới nguy cơ thất nghiệp lớn của SV, là lỗi của các trường ĐH. Còn PGS-TS Trần Đức Quý, Hiệu trưởng Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội, thì cho rằng có chương trình tốt là chưa đủ mà cần phải có việc quản lý quá trình đào tạo tốt: “Chúng ta có thể nhập khẩu chương trình, nhưng điều đó không đảm bảo chắc chắn một kết quả tốt. Nếu chương trình tốt mà anh quản lý không tốt, đánh giá không thực chất và minh bạch thì cũng chưa chắc đảm bảo chất lượng”. >> Bí quyết thành công của CEO Google: Thư giãn và vui vẻ -------------------------------------------- Theo Quý Hiên/thanhnien.vn Sundar Pichai đã đưa ra một số lời khuyên về cuộc sống và sự nghiệp cho các sinh viên tại một trường Đại học ở Ấn Độ. CEO Google - Sundar Pichai vừa có buổi nói chuyện tại Học viện Công nghệ Kharagpur của Ấn Độ. Các sinh viên đã hỏi bằng cách nào họ có thể thành công như ông khi theo đuổi ước mơ, chấp nhận rủi ro và sáng tạo. Câu trả lời của ông hoàn toàn trái ngược với đất nước mà cha mẹ thường đặt nhiều áp lực học hành lên con cái, để sau này tìm được việc tốt. "Học hành rất quan trọng, nhưng không đến mức như người ta vẫn nghĩ đâu", Pichai cho biết. Ông nhấn mạnh khi còn học kỹ sư tại trường đại học cách đây hơn 20 năm, ông cũng thức khuya, ngủ trong lớp và còn bị điểm C một môn nữa. "Tôi học cũng khá chăm chỉ, nhưng vẫn phải vui vẻ nữa", ông cho biết. Pichai khuyên sinh viên nên "biết cách cân bằng", cứ theo đuổi sở thích và tích lũy trải nghiệm. "Nó là một chặng đường dài và vài bước lùi chẳng là gì cả", ông nói. Pichai tốt nghiệp đại học tại Ấn Độ, sau đó sang Mỹ học Đại học Stanford và Trường kinh doanh Wharton. Ông gia nhập gã khổng lồ tìm kiếm năm 2004 và được chỉ định làm CEO năm 2015. Cũng trong tuần này, ông tiết lộ tại New Delhi rằng sẽ tăng cường giúp doanh nghiệp nhỏ kết nối Internet và sẽ tăng số người dùng tại đây lên hơn 1,2 tỷ. Ông cho biết Ấn Độ có tiềm năng trở thành "người chơi toàn cầu trong ngành kinh tế kỹ thuật số", khi ngày càng có nhiều người tiếp cận Internet, đặc biệt là qua các smartphone cao cấp. Tuy nhiên, vẫn còn một phần nhỏ dân số chưa được tiếp cận Internet, đặc biệt là phụ nữ ở nông thôn. Gần cuối buổi nói chuyện, khi một sinh viên hỏi Pichai lời khuyên để tận dụng 4 năm đại học, ông chỉ trả lời rất đơn giản: "Tôi không nghĩ quá nhiều về điều đó". >> Từ năm 2018, học sinh lớp 11 - 12 chỉ còn học 5 môn? ---------------------- Theo VnExpress Đó là thông tin mới về những thay đổi cơ bản trong chương trình giáo dục phổ thông (dự kiến sẽ được thực hiện từ năm 2018 – 2019) được GS Nguyễn Minh Thuyết – Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông tiết lộ. Theo đó, chương trình giáo dục phổ thông mới (năm 2018 – 2019) dự kiến đối với học sinh lớp 10 vẫn sẽ được học đầy đủ các môn học với nội dung hướng nghiệp của từng môn rõ ràng hơn. Ngoài các môn Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ được dạy suốt năm học, các môn còn lại được bố trí mỗi môi chỉ học trong 1 kỳ học. Số lượng các môn trong mỗi kỳ đối với khối lớp 10 chỉ còn khoảng từ 6 – 7 môn. Riêng môn giáo dục thể chất sẽ được tổ chức dưới hình thức các câu lạc bộ thể thao. Đối với học sinh lớp 11 và lớp 12, các môn học được thiết kế tập trung theo định hướng nghề nghiệp. Để làm được điều này, mỗi học sinh khối 11; 12 chỉ cần chọn khoảng 5 môn học. Bên cạnh những môn cần cho nghề nghiệp tương lai, học sinh có thể chọn thêm ít nhất một môn phù hợp với sở trường, sở thích của mình. Ví dụ, nếu muốn theo nghề Kinh doanh sẽ chọn Toán, Lý, Hóa và chọn thêm các môn sở thích như nhạc, họa, ngoại ngữ… Mỗi giờ học mỗi môn sẽ được thiết kế 5 tiết/ tuần. Dự kiến có 3 nhóm môn học: một nhóm học 3 tiết/tuần, nhóm 4 tiết/tuần và nhóm học 5 tiết/tuần. Trong “một môn” cũng có thể có các nhánh phát triển khác nhau để học sinh tự chọn. Ví dụ, ngữ văn sẽ có ngữ văn 1 rèn kỹ năng đọc hiểu để thuyết trình, hùng biện, viết các loại văn bản khác nhau, học khoảng 3 - 4 tiết/tuần. Ngữ văn 2 dành cho những HS có thiên hướng chọn ngành văn học. Theo GS Thuyết, ngoài việc giảm các môn học thì chương trình mới sẽ thiết kế tăng thêm các hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh. Cụ thể, hoạt động trải nghiệm sẽ được chia làm 2 loại: Một loại gắn với nội dung từng môn học và loại mang tính tích hợp liên môn hoặc xuyên môn. Loại hoạt động trải nghiệm sáng tạo thứ nhất do giáo viên môn học thực hiện trong số giờ quy định cho môn học đó. Loại hoạt động trải nghiệm sáng tạo thứ hai do từng trường xác định phù hợp với yêu cầu của địa phương, đặc điểm và điều kiện cụ thể của trường. Chương trình này cũng dự kiến coi việc tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo là điều kiện bắt buộc để xét tốt nghiệp và khuyến khích các trường ĐH CĐ lấy đó làm điều kiện ưu tiên xét tuyển. Trước đó, tháng 11.2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân, Bộ GD ĐT đã triệu tập một số chuyên gia nghiên cứu hoàn thiện dự thảo chương trình tổng thể. GS Nguyễn Minh Thuyết – nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội được chọn làm Tổng chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông mới.
>> Loại bỏ những cuộc thi gây áp lực ------------------------------------------- Theo Tùng Anh/danviet.vn Những năm gần đây, các trường tiểu học, THCS, THPT tổ chức khá nhiều cuộc thi dành cho học sinh (HS), từ thi về kiến thức, văn hóa đến văn nghệ, thể dục thể thao... Tuy nhiên, không phải cuộc thi nào cũng nhận được sự ủng hộ của các em. Trong khi Ngành Giáo dục khẳng định các cuộc thi được tổ chức theo tinh thần tự nguyện, nhưng trên thực tế, đã có không ít ý kiến phàn nàn từ phía phụ huynh và HS, đòi hỏi cần sớm loại bỏ những cuộc thi gây áp lực này. Tác dụng còn hạn chế Hầu hết phụ huynh đều không mấy xa lạ với thông báo của nhà trường về việc đăng ký cho con tham dự các cuộc thi như vẽ tranh, trình bày hiểu biết, giao lưu, tiểu phẩm... Với sự đa dạng về hình thức, nội dung, các cuộc thi này ít nhiều đem lại tác động tích cực cho HS về phát triển trí tuệ và các kỹ năng. Ông Lê Minh Hiếu, phụ huynh HS Trường THCS Trưng Vương (quận Hoàn Kiếm) cho biết: Thỉnh thoảng nhà trường có gửi tin nhắn cho phụ huynh thông báo về nội dung các cuộc thi đang được triển khai, nếu HS nào tham gia thì đăng ký. Vì thế, các con có thể tùy ý lựa chọn nội dung tham gia theo sở thích và khả năng. Tuy nhiên, theo nhận định của một số phụ huynh và cả giáo viên, không phải cuộc thi nào cũng khiến HS hào hứng, mà ngược lại, có những khi các em chỉ tham gia cho có, cốt sao không làm ảnh hưởng đến kế hoạch của lớp, của trường. Ông Nguyễn Văn Khang, Hiệu trưởng Trường THPT Mari Curie Hà Nội nhận định: Thực tế cho thấy có những cuộc thi không khiến HS hào hứng tham gia. Nếu buộc phải làm thì các em sẽ đối phó bằng cách phân công một bạn trong lớp viết, các bạn khác chép hoặc photocopy để nộp cho đủ số lượng, hiệu quả không cao. Phạm Ngọc Lâm, HS lớp 7 Trường THPT Lương Thế Vinh cho biết: “Có khá nhiều cuộc thi nhưng chủ yếu là mang tính phong trào, vì vậy em chỉ tham gia cuộc thi nào mà em thấy vừa sức và thích thú”. Khi được hỏi về tác dụng của các cuộc thi đối với HS nói chung, Phạm Ngọc Lâm không ngần ngại chia sẻ rằng hầu hết bạn của em tham gia "cho vui", chứ thực sự không mấy để tâm. Không phải là tiêu chí đánh giá thi đua Mới đây, cùng với quyết định dừng cuộc thi trực tuyến “Chinh phục vũ môn” đã được triển khai trong hai năm qua, Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo các địa phương rà soát, làm rõ ưu, nhược điểm của từng cuộc thi dành cho HS hiện nay nhằm loại bỏ những kỳ cuộc không thiết thực, tạo áp lực đối với HS và gây băn khoăn cho giáo viên và cha mẹ HS. Tại Hà Nội, theo ông Phạm Xuân Tiến, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT, quan điểm chỉ đạo của ngành là chỉ tổ chức các cuộc thi phù hợp với trình độ, tâm lý lứa tuổi, có tác dụng nâng cao kiến thức và năng lực kỹ năng cho HS, đồng thời không tạo ra áp lực cho các em. Vài năm trước, Hà Nội từng tổ chức cuộc thi viết chữ đẹp cho HS, song đã phải dừng lại vì quá trình triển khai cho thấy cuộc thi gây căng thẳng cho cả cô và trò. Nhiều năm nay, cấp tiểu học của Hà Nội không có những cuộc thi về kiến thức văn hóa mà chỉ có những cuộc thi văn nghệ, vẽ tranh… theo tinh thần tự nguyện. Riêng với tiếng Anh, Hà Nội chỉ tổ chức Olympic ở cấp thành phố, không tổ chức ở cấp quận, huyện và cấp trường, cũng không thành lập đội tuyển hay tổ chức ôn luyện để tránh gây áp lực với HS. Mọi HS có nguyện vọng và khả năng đều có thể tham dự Olympic cấp thành phố. Nhiều phụ huynh HS cho rằng, mặc dù chủ trương của Ngành Giáo dục là giảm tải nhưng trong thực tế, ngành lại có quy định cộng điểm thưởng vào lớp 6 cho những HS tiểu học đoạt giải tại các cuộc thi về văn hóa, văn nghệ, vẽ tranh, khoa học kỹ thuật… Giải đáp mối băn khoăn này, ông Phạm Xuân Tiến khẳng định: Hai năm gần đây, toàn bộ các trường THCS trên địa bàn Hà Nội đều áp dụng chung một phương thức tuyển sinh là xét tuyển theo tuyến, không trường nào tổ chức thi tuyển. Chỉ có một vài trường chất lượng cao, có số lượng HS đăng ký vào nhiều hơn so với chỉ tiêu thì xét tuyển thêm tiêu chí phụ, trong đó có dùng kết quả của HS khi tham gia các cuộc thi. Số lượng HS tham gia xét tuyển vào các trường này cũng rất ít so với tổng số HS vào lớp 6 hằng năm. Phó Giám đốc Sở GD-ĐT Phạm Xuân Tiến khẳng định không có việc các nhà trường bị áp đặt chỉ tiêu về số HS đăng ký tham gia các cuộc thi tại trường và việc có tham gia hay không tùy thuộc hoàn toàn vào quyết định của các em. Sở GD-ĐT không xem xét, đánh giá thi đua dựa trên kết quả tổ chức các cuộc thi này, mà đây chỉ là một tiêu chí tham khảo. Vì vậy, các nhà trường, phụ huynh HS không được bắt buộc HS tham gia, không được gây áp lực để bắt HS tham dự các cuộc thi này với bất cứ lý do nào Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thị Nghĩa vừa ký văn bản gửi Giám đốc các sở GD-ĐT, yêu cầu rà soát toàn bộ các cuộc thi dành cho giáo viên và HS phổ thông. Mục tiêu của việc này là nhằm loại bỏ những cuộc thi không thiết thực, gây áp lực với giáo viên, HS, đồng thời thực hiện tốt mục tiêu đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục phổ thông theo hướng tinh giản, thiết thực, hiệu quả. Bộ GD-ĐT chỉ đạo các sở GD-ĐT nắm rõ thực trạng việc tổ chức các cuộc thi trong trường học hiện nay, làm rõ những khó khăn của giáo viên và HS khi tham gia các cuộc thi này và đề xuất hướng triển khai trong thời gian tới >> Bé 11 tuổi là một trong 10 công dân trẻ tiêu biểu năm 2016 của TP HCM ------------------------------------------------------ Theo Thống Nhất/hanoimoi.com.vn Nhằm đảm bảo học sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng, chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ có nhiều thay đổi, đặc biệt ở cấp THPT theo hướng học sinh sẽ học ít môn nhưng tập trung vào định hướng nghề nghiệp. Mỗi học sinh chỉ cần chọn 5 môn Theo phác thảo của chương trình mới, ở lớp 10, học sinh (HS) vẫn được học đủ các môn với nội dung hướng nghiệp của từng môn rõ hơn chương trình hiện hành. Trừ 3 môn công cụ toán, ngữ văn, ngoại ngữ được dạy suốt năm học, các môn còn lại mỗi môn chỉ được bố trí trong một học kỳ. Môn giáo dục thể chất sẽ được tổ chức dưới hình thức các câu lạc bộ thể thao tự chọn. Như vậy, số lượng các môn ở mỗi học kỳ lớp 10 chỉ vào khoảng 6 hoặc 7 môn. Sau giai đoạn dự hướng ở lớp 10, từ lớp 11 trở đi, HS cần được tập trung vào các môn học chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai. Theo tính toán của nhóm thiết kế chương trình, mỗi HS chỉ cần chọn khoảng 5 môn học. Bên cạnh những môn cần cho nghề nghiệp tương lai, HS có thể chọn thêm ít nhất một môn phù hợp với sở trường, sở thích của mình. Ví dụ, một HS dự kiến theo đuổi nghề y sẽ chọn toán, hóa học, sinh học. Bên cạnh đó, có thể chọn thêm ngoại ngữ, mỹ thuật (vẽ, điêu khắc, thời trang…) là những môn HS đó yêu thích hoặc có năng khiếu nhất định. Theo giải pháp này, đối với mỗi HS, số môn học sẽ giảm được hơn một nửa. HS vừa có điều kiện học sâu hơn, có thời gian thực hành nhiều hơn để chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai vừa có điều kiện phát triển một số năng lực khác. Đối với lớp 11, 12, số giờ mỗi môn ước tính tối đa là 5 tiết/tuần. Dự kiến có 3 nhóm môn học: một nhóm học 3 tiết/tuần, nhóm 4 tiết/tuần và nhóm học 5 tiết/tuần. Ngay trong “một môn” cũng có thể có các nhánh phát triển khác nhau để HS tự chọn. Ví dụ, ngữ văn sẽ có ngữ văn 1 rèn kỹ năng đọc hiểu để thuyết trình, hùng biện, viết các loại văn bản khác nhau, học khoảng 3 - 4 tiết/tuần. Ngữ văn 2 dành cho những HS có thiên hướng chọn ngành văn học. Dự thảo chương trình mới đưa ra nhiều giải pháp để bảo đảm quyền chủ động cho địa phương và cơ sở giáo dục. Chương trình sẽ chỉ quy định tổng thời lượng mỗi môn học trong năm, không quy định chi tiết đến từng tuần như trước. Còn các trường có quyền chủ động sắp xếp kế hoạch phù hợp với điều kiện cụ thể. Phục vụ cộng đồng là điều kiện bắt buộc xét tốt nghiệp Hoạt động trải nghiệm sáng tạo là yêu cầu tất yếu và là một điểm nhấn của dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Hoạt động trải nghiệm sáng tạo bao gồm 2 loại: một loại gắn với nội dung từng môn học và loại mang tính tích hợp liên môn hoặc xuyên môn. Loại hoạt động trải nghiệm sáng tạo thứ nhất do giáo viên môn học thực hiện trong số giờ quy định cho môn học đó. Loại hoạt động trải nghiệm sáng tạo thứ hai do từng trường xác định phù hợp với yêu cầu của địa phương, đặc điểm và điều kiện cụ thể của trường. Chương trình mới coi việc tham gia hoạt động trải nghiệm sáng tạo, trong đó có các hoạt động phục vụ cộng đồng, là điều kiện bắt buộc để xét tốt nghiệp và khuyến nghị các trường ĐH, CĐ coi đó là điều kiện ưu tiên để tuyển sinh. Biết tôn trọng sự khác biệt Trong chương trình mới, phẩm chất cần hình thành, phát triển ở HS gồm 16 chữ sau: nhân ái, khoan dung; chuyên cần, tiết kiệm; trách nhiệm, kỷ luật; trung thực, dũng cảm. Trong những phẩm chất được kỳ vọng này, có những giá trị truyền thống được mở rộng theo yêu cầu của thời đại. Ví dụ, “khoan dung” không chỉ là biết tha thứ mà còn phải biết tôn trọng sự khác biệt; “tiết kiệm” không chỉ là tiết kiệm tiền bạc, tài sản cá nhân và gia đình mà còn là tiết kiệm tài nguyên để phát triển bền vững; “dũng cảm” không chỉ là gan góc trong chiến đấu mà còn là dũng cảm trong nhận thức và đấu tranh bảo vệ lẽ phải, bao gồm cả tư duy phản biện mà chúng ta vẫn mong muốn hình thành ở những con người mới. Chương trình mới hình thành ở HS năng lực tự chủ, hợp tác, sáng tạo. >> Có nên dạy tiếng Anh bằng tiếng Việt? ------------------------------------------------- Theo Tuệ Nguyễn/thanhnien.vn 10 gương mặt tiêu biểu được bình chọn từ 131 người đến từ 49 đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực, có đóng góp lớn cho sự phát triển của thành phố. Tối 3/1, Thành đoàn TP HCM chính thức vinh danh và trao danh hiệu “Công dân trẻ tiêu biểu Thành phố Hồ Chí Minh năm 2016” cho 10 điển hình trẻ nổi bật trên nhiều lĩnh vực. Tới dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy thành phố Đinh La Thăng. Công dân trẻ tiêu biểu nhỏ tuổi nhất là Tô Huỳnh Phúc, 11 tuổi. 10 gương mặt tiêu biểu được bình chọn từ 131 người đến từ 49 đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực, có đóng góp lớn cho sự phát triển của thành phố. Đây cũng là năm đầu tiên có đại diện của cộng đồng khởi nghiệp trong danh sách đề cử, đó là Đoàn Thiên Phúc, 27 tuổi, Giám đốc điều hành Công ty Cổ phần Giải pháp phần mềm Setech Viet. 9 công dân trẻ với những thành tích nổi bật khác là Lê Thanh Vủ, 26 tuổi, Đội Cảnh sát hình sự đặc nhiệm, Phòng PC45, Công an TP HCM; Nguyễn Trung Hiếu, 30 tuổi, chủ trại cá giống Trung Hiếu, huyện Củ Chi; Nguyễn Xuân Giềng, 23 tuổi, trợ giảng trường đại học Khoa học Tự nhiên TP HCM; Nguyễn Lạc Hà, 27 tuổi, nghiên cứu viên Trung tâm Nghiên cứu vật liệu cấu trúc nano và phân tử đại học Quốc gia TP HCM; Lê Duy Phúc 25 tuổi, Trung tâm Điều độ hệ thống điện TP HCM; Lê Tú Chinh 19 tuổi, vận động viên điền kinh Trung tâm Thể dục thể thao Thống Nhất; Nguyễn Viết Thanh 28 tuổi, Trung tâm Bảo trợ xã hội Bình Đức, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố; Bùi Vũ Nguyệt Minh, 16 tuổi, lớp 8/9 piano hệ Trung cấp Nhạc viện TP HCM. Công dân trẻ tiêu biểu Bùi Vũ Nguyệt Minh, nghệ sĩ piano trẻ. Công dân trẻ tiêu biểu nhỏ tuổi nhất là Tô Huỳnh Phúc, 11 tuổi, lớp 6A5, Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa, người xuất sắc đoạt 5 Huy cương vàng toán quốc gia và quốc tế với ước mơ được trở thành giáo viên nói: “Được bình chọn là công dân trẻ tiêu biểu của thành phố năm 2016 là một niềm hạnh phúc đối với em. Em sẽ cố gắng học tập thật giỏi, là một người có ích cho thành phố và cho đất nước, xứng đáng là công dân trẻ tiêu biểu của thành phố”./.
>> Chương trình giáo dục phổ thông mới: Giảm hơn phân nửa số môn học --------------------------------------------- Theo Ngọc Luân/vov-TPHCM Có nên hay không sử dụng tiếng Việt trong việc dạy và học tiếng Anh luôn là vấn đề gây tranh luận. LTS: Việc dạy tiếng Anh hiện nay vẫn đang gặp phải nhiều ý kiến tranh cãi. Đặc biệt là việc có nên dạy tiếng Anh bằng tiếng Việt như lâu nay ngành giáo dục của ta vẫn làm không vẫn là một câu hỏi lớn. Thạc sĩ Ngô Mạnh Linh có chia sẻ một vài quan điểm về vấn đề này. Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết! Có nên hay không sử dụng tiếng Việt trong việc dạy và học tiếng Anh? Nghe thì đơn giản, rằng môn học tiếng Anh thì ngôn ngữ sử dụng trong lớp phải là tiếng Anh chứ. Thực ra với môi trường học ngoại ngữ ở Việt Nam thì còn có rất nhiều vấn đề cần quan tâm. Có thể kể ra một số trở ngại như sau: (1) Phần nhiều học viên sẽ cảm thấy khó khăn khi giáo viên sử dụng 100% tiếng Anh (2) Một số giáo viên không có khả năng diễn đạt 100% bằng tiếng Anh (3) Thầy và trò đều đã quen dùng tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) nên đôi khi lạ lẫm về tâm lý khi sử dụng tiếng Anh 100% trong lớp (4) Thói quen (truyền thống) dạy và học tiếng Anh ở Việt Nam và một số nước khác là luôn nặng về dịch nghĩa, định nghĩa. (5) Thiếu công cụ trực quan, chất lượng giáo trình chưa cao. Vì gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng tiếng Anh như trên nên phần đông giáo viên thường dùng tiếng Việt để dạy tiếng Anh cho học viên. Nghiên cứu về vấn đề này, nhà nghiên cứu John Harbord cho rằng việc phụ thuộc quá nhiều vào tiếng mẹ đẻ sẽ làm mất lòng tin vào khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh. Người học có thể cảm thấy rằng cách duy nhất để họ hiểu bất cứ điều gì giáo viên nói là khi nó được dịch ra tiếng Việt, dẫn đến thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ ngay cả khi các em hoàn toàn có khả năng diễn đạt bằng tiếng Anh. Điều này vừa làm giảm đáng kể cơ hội thực hành tiếng Anh trong lớp, vừa dẫn tới suy nghĩ rằng việc sử dụng tiếng Anh trong trong việc học tiếng Anh là điều rất khó thực hiện. Bên cạnh đó, trong việc học ngoại ngữ, đối tượng tiếp nhận là người học (learner) thường chú ý nhiều hơn đến nội dung được truyền đạt nếu giáo viên sử dụng ngoại ngữ để giảng dạy, và sự chú ý đó sẽ bị giảm đi khi ngôn ngữ giảng dạy là tiếng mẹ đẻ (tiếng mà người học đã quen thuộc). Có nghĩa là học viên viên sẽ tập trung nhiều hơn vào những gì giáo viên nói, nếu thầy cô nói điều đó bằng tiếng Anh. Nói thêm về khó khăn thứ (4) phía trên. Việc dịch thuật, định nghĩa, đào sâu vào khái niệm là không sai, bản năng của việc học ngoại ngữ là như vậy, thậm chí là bẩm sinh. Đây cũng là lý do tại sao việc sử dụng từ điển song ngữ vẫn cần thiết. Đây cũng là cách tiết kiệm thời gian nhất của giáo viên khi dạy ngoại ngữ, khi chỉ cần đưa ra 1 từ mới và cho sinh viên định nghĩa bằng tiếng Việt của từ đó (single-word translations hay grammar-translation method). Cách dạy này hiện tại đã dần được thay thế bởi phương pháp tiếp cận trực tiếp (direct method), đó là gắn các từ vựng với các tình huống cụ thể, với một câu, một đoạn, với một hình ảnh trực quan, từ đó đưa ra các miêu tả, giải thích. Cách thức này chắc chắn sẽ mất thời gian hơn, cần sự kiên nhẫn hơn, nhưng hiệu quả là rất lớn, đặc biệt là hiệu quả trong giao tiếp. Nên nhớ rằng có nhiều từ không thể dịch trực tiếp ra ngôn ngữ khác do sự khác biệt về mặt văn hóa và nhiều yếu tố khác. Vì thế, dịch nghĩa ra một từ tiếng Việt tương ứng chỉ nên là công đoạn cuối cùng khi các cách trên không hiệu quả mà thôi. Tài liệu tham khảo: Harbord, J. (1992). The use of the mother tongue in the classroom. ELT Journal, 4614, 350-355. >> Bỏ điểm sàn đại học: Có giảm cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp? ------------------------------------------------ Theo Ngô Mạnh Linh/giaoduc.net.vn |
BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀTẤT CẢ
Thích giao tiếp, chọn marketing, ngoại thương có hợp không? 20.000 thí sinh cả nước tranh tài tại English Champion Hướng đi mới cho học sinh tốt nghiệp THCS 4 trường đại học Việt Nam được tổ chức HCERES kiểm định chất lượng Khánh thành trường học mô hình toàn diện TH School Lịch thi chính thức kỳ thi quốc gia 2017 Vì sao bạn cần 4 cái ôm mỗi ngày để tồn tại? Ngành nghề cần đến 3 triệu lao động? Được nhà băng tặng 100 triệu chi tiêu trong 1 tuần Cha mẹ nên bắt đầu dạy con làm việc nhà như thế nào? Dạy con cách giúp đỡ người khác Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân Người "thường thường" mới thích tụ tập bạn bè, còn người thông minh chỉ muốn ở một mình Học mà không biết làm được việc gì! Bí quyết thành công của CEO Google: Thư giãn và vui vẻ Từ năm 2018, học sinh lớp 11 - 12 chỉ còn học 5 môn? Loại bỏ những cuộc thi gây áp lực Bé 11 tuổi là một trong 10 công dân trẻ tiêu biểu năm 2016 của TP HCM Chương trình giáo dục phổ thông mới: Giảm hơn phân nửa số môn học Có nên dạy tiếng Anh bằng tiếng Việt? Bỏ điểm sàn đại học: Có giảm cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp? Đã qua thời "con ngoan, trò giỏi" Cần đưa khởi nghiệp vào chương trình đào tạo "Cần cù là huyền thoại, hiếu học là ngộ nhận" Bổ nhiệm cán bộ siêu tốc: Đừng nhìn bằng cấp Muốn thi Sử điểm cao, đọc kỹ sách giáo khoa Sống ở đời nên học cách cúi đầu Học tiếng Anh trong trường không đủ để giao tiếp Không thể tin, ca khúc ‘Ông bà anh’ đã được đưa vào đề thi Ngữ văn lớp 12 Hơn 70.000 giáo viên sẽ thất nghiệp: Cơ cấu lại trường sư phạm ra sao? Hiến kế giúp start-up giữ chân người tài Thành công hơn nhờ làm việc... ít hơn Giới trẻ băn khoăn gì khi khởi nghiệp? Muốn thành công ở tuổi 20, hãy làm theo 7 điều này Làm thế nào để giàu mà không cần trúng số? Chủ tịch Thế giới di động Nguyễn Đức Tài: Đừng khởi nghiệp chỉ vì đam mê Thí sinh có tối đa 10 nguyện vọng vào ĐH Người thành công sẽ không bao giờ nói ra những điều này Lỗi phát âm là nguyên nhân dùng từ sai Đừng biến con mình thành 'đa cấp dịch vụ khoa học' thông qua lớp học kích hoạt não Nhiều sinh viên cháy túi vì những khóa học làm giàu Bộ Giáo dục lại “chỉnh” xét tuyển đại học 2017 Tiếng Anh theo cách nhìn người Việt Bộ trưởng Giáo dục: Rất trăn trở với 191.000 cử nhân thất nghiệp Chỉ 10% số người được hỏi trả lời đúng cả hai đáp án của câu đố này! Bạn thuộc nhóm nào? Nếu trả lời đúng 5 câu đố này, bạn xứng đáng được nhận vào Đại học Oxford Một nghề thì sống, đống nghề thì... sống tốt hơn Chàng trai Việt lập kỳ tích: đạt 4 kỷ lục thế giới về trí nhớ Đề án ngoại ngữ 2020 sẽ tập trung vào tiếng Anh Bức thư gửi mẹ đẫm nước mắt của nữ sinh mồ côi Phương án tổ chức kỳ thi THPT quốc gia 2017 Công bố phương án thi THPT Quốc gia năm 2017 Công bố 14 đề thi minh họa kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 ÁP DỤNG THÔNG TƯ MỚI VỀ ĐÁNH GIÁ HỌC SINH TIỂU HỌC TỪ 11/2016 THI THPT QUỐC GIA: HỌC SINH LÊN MẠNG "TẬP BƠI" KỲ THI THPT QUỐC GIA NĂM 2017 CÓ GÌ MỚI? |